CHOLESTEROL TOÀN PHẦN là một thành phần trong Mỡ máu của Cơ thể!
Cholesterol đóng vai trò rất quan trọng đối với sức khỏe con người. Cholesterol có mặt tại hầu hết các bộ phận của cơ thể con người, giúp cơ thể phát triển và hoạt động bình thường. Vậy Cholesterol là gì? Có mấy loại cholesterol ? Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn trả lời các câu hỏi đó.
1. Cholesterol là gì?
Cholesterol là một thành phần của lipid máu, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong hầu hết các hoạt động của cơ thể. Cholesterol là một yếu tố không thể thiếu trong quá trình hoạt động của tế bào sợi thần kinh, cũng như trong việc sản xuất một số loại hormone, giúp cơ thể hoạt động bình thường và khỏe mạnh.
Cholesterol được hình thành từ 2 nguồn là từ trong cơ thể tổng hợp hoặc từ thức ăn. Khoảng 75% cholesterol trong máu được sản xuất ở gan và các cơ quan khác trong cơ thể, phần còn lại là từ thức ăn. Các loại thực phẩm có chứa cholesterol đều là các loại thức ăn có nguồn gốc từ động vật như thịt, sữa, lòng đỏ trứng, phù tạng động vật.
2. Cholesterol toàn phần
Cholesterol là một thành phần của mật và có mặt trong hồng cầu - màng tế bào - cơ. Gan là cơ quan chủ yếu tổng hợp Cholesterol và cũng là bộ phận duy nhất este hóa Cholesterol.
Trong cơ thể con người có khoảng 70% cholesterol được este hóa (kết hợp với acid béo) và 30% còn lại tồn tại dưới dạng tự do trong máu (huyết tương).
Khi xét nghiệm, cả 2 dạng cholesterol trên không phân biệt ra mà thường được đo chung với nhau. Chính vì vậy, gọi cholesterol toàn phần là sự kết hợp của cholesterol tự do và cholesterol ester.
3. Định lượng cholesterol toàn phần
Cholesterol toàn phần được cho ta biết các lưu ý trong sức khỏe như sau:
- Nhỏ hơn 5,1 mmol/L (200 mg/dL): Nồng độ tốt và ít có nguy cơ gây bệnh động mạch vành.
- Nằm trong khoảng 5,1 – 6,2 mmol/L (200 - 239 mg/dL): Nồng độ này cho ta thấy cần chú ý các vấn đề sức khỏe khi kết quả xét nghiệm ở mức ranh giới này.
- Lớn hơn hoặc bằng 6,2 mmol/L (240 mg/dL): Đây là chỉ số tăng cholesterol máu và có nhiều nguy cơ mắc bệnh xơ vữa động mạch gấp đôi người bình thường.
Mức cholesterol huyết cao có thể tạo ra những mảng lắng đọng ở động mạch vành, kéo theo nguy cơ bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim. Chỉ số cholesterol máu tăng lên theo độ tuổi và khác nhau giữa nam giới và nữ giới. Cụ thể là nồng độ cholesterol ở đàn ông cao hơn phụ nữ trước độ tuổi 50 tuổi. Tuy nhiên, điều ngược lại sẽ xảy ra khi cả hai giới bước qua 50 tuổi trở đi (nữ > nam).
Mức cholesterol huyết cao có thể tạo ra những mảng lắng đọng ở mạch máu
Ngoài xơ vữa động mạch, cholesterol toàn phần trong máu cao còn gây vàng da do tắc mật, đái tháo đường và tăng huyết áp. Mặt khác, giảm cholesterol quá mức cũng là nguyên nhân của cường giáp hoặc hội chứng Cushing.
4. Các thành phần Lipid máu liên quan khác
4.1. HDL - Cholesterol
Không phải bất kỳ loại cholesterol nào cũng gây hại cho sức khỏe cơ thể con người và HDL - Cholesterol là một ví dụ. HDL-C hiếm khoảng 25 - 30% trên tổng số cholesterol trong máu, loại lipoprotein tỷ trọng cao này có vai trò vận chuyển cholesterol từ máu trở về gan và đặc biệt là mang cholesterol ra khỏi mảng xơ vữa ở thành mạch máu. Nguy cơ mắc phải xơ vữa động mạch cũng như các triệu chứng tim mạch nghiêm trọng khác từ đó được giảm bớt nhờ vào cơ chế trên.
Để làm tăng nồng độ HDL cholesterol có lợi chúng ta cần bỏ hút thuốc lá, giữ trọng lượng cơ thể không thừa cân/béo phì và tăng cường vận động thể dục...
4.2. LDL – Cholesterol
LDL, chữ viết tắt của cụm Low Density Lipoproteins, có nghĩa là lipoprotein tỷ trọng thấp. Đây loại cholesterol xấu mà chúng ta thường biết đến, gây ra các ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe con người. Khi nồng độ LDL xuất hiện nhiều trong máu, chúng sẽ lắng đọng lại ở thành mạch của tim và não, lâu dần hình thành các mảng xơ vữa động mạch. Mảng xơ vữa này khiến mạch máu bị hẹp và tắc, thậm chí là vỡ đột ngột. Từ đó sẽ dẫn đến các tình huống tim mạch nguy hiểm cấp như nhồi máu cơ tim hoặc tai biến mạch não.
Vì lý do trên, LDL cholesterol là chỉ số quan trọng cần theo dõi bên cạnh định lượng cholesterol toàn phần. Trong đó, nếu mức LDL cholesterol < 2,6 mmol/L (< 100 mg/dL) thì được xem là tối ưu. Chỉ số càng lớn đồng nghĩa với nguy cơ càng tăng, nếu đạt đến 4,9 mmol/L (≥ 190 mg/dL) là mức tối đa rất nguy hiểm.
Tăng cholesterol toàn phần là tăng LDL-cholesterol xấu và giảm HDL-cholesterol tốt
4.3 Lp(a) Cholesterol
Lp(a) Cholesterol là một biến thể của LDL – Cholesterol. Hàm lượng Lp(a) Cholesterol trong máu tăng có thể dẫn đến các nguy cơ hình thành các mảng xơ vữa động mạch.
Bộ mỡ máu trong cơ thể người bao gồm Cholesterol toàn phần và Triglycerid. Cholesterol toàn phần còn được chia làm hai loại là HDL - cholesterol (tốt) và LDL - cholesterol (xấu).
Mặc dù việc tăng cholesterol toàn phần trong máu gây ra nhiều biến cố tim mạch khôn lường, song hầu như bệnh nhân có định lượng cholesterol toàn phần cao đều không nhận thấy biểu hiện rõ ràng bên ngoài.
Vì quá trình xơ vữa động mạch diễn tiến một cách thầm lặng nên người trưởng thành không được chủ quan, thay vào đó là cần thường xuyên xét nghiệm mỡ máu và duy trì thói quen sinh hoạt lành mạnh nhằm đảm bảo cơ thể luôn khỏe mạnh từ bên trong.
Hội Tim Mạch Học Việt Nam khuyến nghị tất cả những người lớn trên 20 tuổi nên tiến hành xét nghiệm bốn chỉ số cơ bản của mỡ máu bao gồm: Cholesterol toàn phần, LDL cholesterol, HDL cholesterol và Triglycerides. Trước khi làm xét nghiệm, bệnh nhân phải nhịn ăn tối thiểu 12 giờ đồng hồ và chỉ được uống nước lọc. Tần suất kiểm tra lipid máu được đề xuất ít nhất là 1-5 năm một lần.
Nhận xét
Đăng nhận xét