Xét nghiệm Glucose máu hay xét nghiệm đường huyết (đường máu) là một trọng những xét nghiệm cơ bản trong khám chữa bệnh. Ở Việt Nam, hiện có khoảng 4,8 triệu người mắc tiểu đường, đặc biệt ngày càng có xu hướng gia tăng ở người trẻ. Việc kiểm tra chỉ số đường huyết thường xuyên đóng vai trò vô cùng quan trọng để phòng và điều trị bệnh tiểu đường.
1. Chỉ số đường huyết là gì?
1. Chỉ số đường huyết là gì?
Đường (glucose) là nguồn năng lượng chính của cơ thể, đồng thời cũng là nguồn nhiên liệu cực kỳ quan trọng và cần thiết cho hệ thần kinh và tổ chức não bộ.
Chỉ số đường huyết viết tắt là GI (glycemic index) được định nghĩa là giá trị chỉ nồng độ glucose có trong máu thường được đo bằng đơn vị là mmol/L hoặc mg/dl. Nồng độ glucose trong máu liên tục thay đổi từng ngày thậm chí từng phút. Trong máu luôn có một lượng đường nhất định, nếu lượng đường này thường xuyên cao sẽ dẫn tới bệnh đái tháo đường.
Chỉ số đường huyết được phân thành 4 loại:
- Đường huyết ngẫu nhiên,
- Đường huyết lúc đói,
- Đường huyết sau ăn,
- và HbA1C.
Chỉ số đường huyết có ý nghĩa giúp xác định nồng độ glucose trong máu của người tại thời điểm khảo sát là bao nhiêu. Từ đó, chúng ta có thể xác định được người bệnh đang ở mức bình thường, tiền đái tháo đường hay đang bị đái tháo đường.
2. Lượng đường của người bình thường là bao nhiêu?
Chỉ số đường huyết an toàn đối với người bình thường như sau:
- Đường huyết lúc đói: < 5,6 mmol/l (<100 mg/dL)
- Đương huyết sau ăn: < 7,8 mmol/l (<140 mg/dL)
- Đường huyết ngẫu nhiên: < 7,8 mmol/l (<140 mg/dL)
- HbA1C: < 5,7 % - 6,5%
Cụ thể:
2.1. Đường huyết lúc đói:
Chỉ số đường huyết lúc đói được đo lần đầu vào buổi sáng, lúc bạn chưa ăn hay uống bất kỳ loại thực phẩm nào. Chỉ số đường huyết lúc đói ở khoảng giữa 3.9 mmol/L (70 mg/dL) và 5.0 mmol/L (92 mg/dL) là bình thường.
Qua quá trình nghiên cứu, các chuyên gia y tế thấy rằng những người có lượng đường huyết lúc đói trong khoảng trên không có nguy cơ phát triển bệnh đái tháo đường trong vòng 10 năm tới hoặc lâu hơn.
2.2. Đường huyết sau ăn:
Chỉ số đường huyết sau ăn của người bình thường khỏe mạnh là dưới 6.6 mmol/L (120mg/dL), đo trong vòng 1 – 2 giờ sau ăn.
2.3. Đường huyết lúc đi ngủ:
Lượng đường huyết trước đi ngủ của người bình thường sẽ dao động từ 6,0-8,3mmol/l (110-150mg/dl).
HbA1c dưới 48 mmol/mol (6,5%) là bình thường. HbA1C thường được sử dụng để chẩn đoán bệnh đái tháo đường.
2.5. Lượng đường trong máu dưới 3.9 mmol/L (70 mg/dL) thì được coi là hạ đường huyết.
Đây là tình trạng nguy hiểm và cần được cấp cứu kịp thời. Sự tụt giảm đường huyết này vẫn có thể tiếp tục diễn ra và khiến cho người bệnh có thể rơi vào trạng thái hôn mê, tổn thương não.
Tuy nhiên, nếu lượng đường huyết cao sẽ dẫn đến làm giảm khả năng tiết insulin của các tế bào tuyến tụy. Để cung ứng đủ nhu cầu của cơ thể, tuyến tụy phải làm việc ngày một nhiều hơn cho đến khi bị quá tải và hư hỏng. Bên cạnh đó, nó còn làm cho mạch máu bị xơ cứng hay còn gọi là tình trạng xơ vữa động mạch. Hầu hết các bộ phận trên cơ thể đều có khả năng bị tổn thương do chỉ số đường huyết cao.
Trong khám sức khỏe định kỳ, đường huyết nên được xét nghiệm khi đói, chỉ số Glucose (GI) là xét nghiệm phổ biến, nếu GI tăng cao thì cần xét nghiệm thêm Hb1Ac để đánh giá chẩn đoán bệnh đái tháo đường.
3. Giới thiệu về Glucose
Glucose (còn gọi là dextrose ) là một loại monosaccarit với công thức phân tử C6H12O6 và phổ biến nhất.
Glucose chủ yếu được tạo ra bởi thực vật và hầu hết các loại tảo trong quá trình quang hợp từ nước và CO2, sử dụng năng lượng từ ánh sáng mặt trời. Ở đó, nó được sử dụng để tạo ra cellulose trong thành tế bào và tinh bột.
Trong chuyển hóa năng lượng, glucose là nguồn nghiên liệu quan trọng nhất trong tất cả các sinh vật để tạo ra năng lượng trong quá trình hô hấp tế bào. Trong thực vật nó được lưu trữ chủ yếu ở dạng cellulose và tinh bột (hỗn hợp gồm thành phần chính là amilose mạch đơn và amylopectin ở dạng mạch phân nhánh ), còn ở động vật nó được lưu trữ trong glycogen.
Dạng glucose xuất hiện trong tự nhiên là D-glucose, trong khi đó L-glucose được sản xuất tổng hợp với số lượng tương đối nhỏ và có tầm quan trọng thấp hơn.
3. Giới thiệu về Glucose
Glucose (còn gọi là dextrose ) là một loại monosaccarit với công thức phân tử C6H12O6 và phổ biến nhất.
Glucose chủ yếu được tạo ra bởi thực vật và hầu hết các loại tảo trong quá trình quang hợp từ nước và CO2, sử dụng năng lượng từ ánh sáng mặt trời. Ở đó, nó được sử dụng để tạo ra cellulose trong thành tế bào và tinh bột.
Trong chuyển hóa năng lượng, glucose là nguồn nghiên liệu quan trọng nhất trong tất cả các sinh vật để tạo ra năng lượng trong quá trình hô hấp tế bào. Trong thực vật nó được lưu trữ chủ yếu ở dạng cellulose và tinh bột (hỗn hợp gồm thành phần chính là amilose mạch đơn và amylopectin ở dạng mạch phân nhánh ), còn ở động vật nó được lưu trữ trong glycogen.
Dạng glucose xuất hiện trong tự nhiên là D-glucose, trong khi đó L-glucose được sản xuất tổng hợp với số lượng tương đối nhỏ và có tầm quan trọng thấp hơn.



Nhận xét
Đăng nhận xét